Nguy cơ ung thư vú ngày càng gia tăng ở phụ nữ trẻ
Ung thư vú ngày càng gia tăng ở phụ nữ trẻ cho thấy sự cấp thiết của việc nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc tự khám vú định kỳ và tầm soát ung thư vú sớm.
1. Tỷ lệ mắc ung thư vú ngày càng tăng, nhưng tỷ lệ tử vong giảm
Việc tự kiểm tra vú, đi khám sức khỏe định kỳ đầy đủ và duy trì lối sống lành mạnh phòng ngừa ung thư ngày càng trở nên quan trọng đối với phụ nữ trong độ tuổi 20 - 40. Tin vui là tỷ lệ sống sót sau ung thư vú ngày càng tăng, nhưng thực tế đáng lo ngại là căn bệnh này lại ngày càng phổ biến và trẻ hóa.
Một báo cáo gần đây cho thấy tỷ lệ mắc ung thư vú đã tăng 1% mỗi năm từ năm 2012 đến 2021, đặc biệt ở phụ nữ dưới 50 tuổi và thậm chí là cả phụ nữ trong độ tuổi 20. Ngược lại, tỷ lệ tử vong do căn bệnh này đã giảm tới 44% trong vòng 3 thập kỷ qua (theo số liệu được công bố bởi Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ).

Tỷ lệ tử vong giảm nhưng ung thư vú lại ngày càng phổ biến và trẻ hóa.
>>> Xem thêm: Các phương pháp và hướng dẫn thực hiện tự khám vú tại nhà
2. Chế độ lối sống và yếu tố nguy cơ
Theo các tác giả báo cáo, ung thư vú thường không có triệu chứng khi khối u còn nhỏ và dễ điều trị. Do vậy, việc tầm soát ung thư vú bằng chụp vú (Mammography) đóng vai trò rất quan trọng để phát hiện sớm căn bệnh này. Khối u không đau ở vú hoặc hạch bạch huyết dưới cánh tay là dấu hiệu phổ biến nhất. Ngoài ra, ung thư vú còn có thể gây ra những dấu hiệu và triệu chứng khác bao gồm đau vú, cảm giác nặng nề ở vú; da trên vú sưng, tấy đỏ và dày lên; núm vú tụt hoặc tiết dịch bất thường. Bất kỳ thay đổi bất thường nào ở vú kéo dài đều cần được bác sĩ thăm khám và đánh giá kỹ lưỡng.
Các khuyến nghị liên bang mới nhất đã cập nhật, theo đó khuyến cáo phụ nữ nên bắt đầu chụp nhũ ảnh từ 40 tuổi. Trong khi đó, Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ đề xuất bắt đầu tầm soát ung thư vú trước tuổi 45, đồng thời cân nhắc độ tuổi bắt đầu chụp vú (Mammography) ảnh từ 40 tuổi.

Các chuyên gia khuyến cáo phụ nữ nên bắt đầu chụp nhũ ảnh từ 40 tuổi để tầm soát ung thư vú
Theo tác giả của báo cáo, phần lớn phụ nữ mắc ung thư vú không có yếu tố nguy cơ rõ ràng. Tuy nhiên, khoảng 30% trường hợp liên quan đến những yếu tố nguy cơ có thể kiểm soát được như thừa cân (đặc biệt là ung thư vú sau mãn kinh), lối sống ít vận động và sử dụng nhiều rượu bia.
Báo cáo cũng mang đến những tin tức đáng lo ngại cho phụ nữ trẻ và trung niên. Tỷ lệ sống sót sau mắc ung thư vú có sự chênh lệch đáng kể, đặc biệt thấp hơn ở nhóm phụ nữ được chẩn đoán bệnh ở giai đoạn muộn và không có khả năng tiếp cận các phương pháp điều trị chất lượng cao. Theo đó, trước tuổi 50, cứ 50 phụ nữ thì có 1 người có khả năng mắc ung thư vú. Về tổng quan, 13% phụ nữ sẽ mắc căn bệnh này trong suốt cuộc đời, tương đương với nguy cơ mắc ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới.
Ung thư vú vẫn là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ Mỹ chỉ sau ung thư da. Mỗi năm, căn bệnh này cướp đi sinh mạng của 42.250 phụ nữ, đứng thứ hai trong số những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu do ung thư ở phụ nữ sau ung thư phổi với 59.280 ca tử vong. Ước tính trong năm nay sẽ có 310.720 phụ nữ và 2.790 nam giới mắc ung thư vú.

Ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ Mỹ chỉ sau ung thư da
3. Ung thư vú và những tác động đối với các nhóm dân tộc
Phụ nữ gốc Á/Đảo Thái Bình Dương ghi nhận mức tăng nguy cơ mắc ung thư vú cao nhất với tỷ lệ tăng hơn 2,5% mỗi năm từ năm 2012 đến 2021 – cao hơn gấp đôi so với các nhóm chủng tộc khác. Trước đó, nhóm phụ nữ này từng có tỷ lệ mắc bệnh thấp nhất vào năm 2000.
Ung thư vú cũng đang gia tăng nhanh chóng ở phụ nữ gốc Tây Ban Nha và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở nhóm này. Trong khi đó, phụ nữ da đen vẫn tiếp tục phải đối mặt với tỷ lệ sống sót thấp nhất ở hầu hết các loại và giai đoạn ung thư vú.
Dữ liệu cũng cho thấy, 67% phụ nữ từ 40 tuổi trở lên đã thực hiện tầm soát ung thư vú trong 2 năm qua, nhưng tỷ lệ này chỉ đạt 51% đối với phụ nữ người Mỹ bản địa/Alaska. Tỷ lệ tầm soát ung thư vú cũng thay đổi theo khu vực địa lý, dao động từ 58% ở Wyoming đến 77% ở Rhode Island.
Tiến sĩ William Dahut, Giám đốc khoa học của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, cho biết: 'Mặc dù hiện nay tỷ lệ tử vong do ung thư vú ở phụ nữ đã giảm, tuy nhiên vẫn còn chênh lệch đáng báo động giữa phụ nữ người Mỹ gốc Á, phụ nữ ở Đảo Thái Bình Dương, người Mỹ bản địa và phụ nữ da đen. Để thay đổi tình hình này, chúng ta cần chung tay nâng cao nhận thức và nỗ lực để đảm bảo mọi phụ nữ đều có thể tầm soát và có cơ hội được điều trị một cách tốt nhất”.