Tác dụng phụ ngắn hạn phổ biến của hóa trị ung thư vú
Hóa trị là phương pháp điều trị ung thư vú cơ bản. Trong quá trình hóa trị, người bệnh sẽ phải chịu một số tác dụng phụ. Cùng tìm hiểu một số tác dụng phụ ngắn hạn của hóa trị với Trung tâm Y khoa NeoMedic.
Các tác dụng phụ của việc truyền hóa chất điều trị ung thư vú phụ thuộc vào chế độ điều trị, số chu kỳ điều trị và sức khỏe tổng thể của người bệnh. Cần lưu ý là các tác dụng phụ có thể khác nhau giữa những người bệnh dùng chung một phác đồ.
Có những loại thuốc có thể giúp giảm bớt tác dụng phụ của hóa trị ung thư vú. Điều quan trọng là người bệnh phải thông báo với bác sĩ về bất kỳ tác dụng phụ nào đang gặp phải. Nếu một loại thuốc không kiểm soát được tác dụng phụ, người bệnh có thể cần thử dùng những loại thuốc khác nhau.
Hầu hết các tác dụng phụ của hóa trị liệu là ngắn hạn và biến mất sau khi kết thúc liệu pháp. Tuy nhiên, một số loại hóa chất điều trị ung thư vú có thể gây ra các tác dụng phụ lâu dài và đòi hỏi phải được theo dõi liên tục.
1. Quan niệm sai lầm về hóa trị

Hóa trị ung thư vú có thể gây ra nhiều tác dụng phụ
Một vấn đề rất quan trọng mà người bệnh cần biết là không thể đánh giá hiệu quả của liệu pháp hóa trị liệu nếu chỉ dựa vào các tác dụng phụ. Một số người nghĩ rằng nếu tác dụng phụ nghiêm trọng hơn nghĩa là hóa trị hiệu quả hơn, hoặc không có tác dụng phụ có nghĩa là hóa trị không hiệu quả. Đây là một quan điểm vô cùng sai lầm vì các tác dụng phụ không liên quan gì đến mức độ hiệu quả của hóa trị liệu.
Khi bệnh nhân và bác sĩ quyết định thực hiện một phác đồ hóa trị ung thư vú cần cân nhắc giữa lợi ích và tác dụng phụ.
2. Các tác dụng phụ ngắn hạn của hóa trị ung thư vú
- Thiếu máu, giảm số lượng tế bào hồng cầu;
- Thay đổi cảm giác thèm ăn;
- Táo bón: là tác dụng phụ của hoá trị ung thư vú. Việc kết hợp thêm chất xơ vào chế độ ăn uống có thể làm mềm phân và cải thiện tình trạng táo bón;
- Tiêu chảy;
- Mệt mỏi: là tác dụng phụ phổ biến và dai dẳng của bất kỳ liệu pháp hoá trị nào. Nguyên nhân là do sự ảnh hưởng đến máu và tuỷ xương của hoá trị liệu gây thiếu máu, mệt mỏi thậm chí là nhiễm trùng. Bệnh nhân cảm thấy khó khăn khi thực hiện những công việc đơn giản hàng ngày. Để kiểm soát sự mệt mỏi, người bệnh hãy:
- Cho bác sĩ biết tình trạng của mình để xác định các nguyên nhân gây mệt mỏi và đưa ra phương án điều trị phù hợp như: Điều chỉnh chế độ dinh dưỡng, thói quen sinh hoạt hàng ngày, bổ sung thuốc, vitamin cần thiết
- Tập thể dục thường xuyên, lưu ý bệnh nhân nên tập với cường độ vừa phải phù hợp với tình trạng sức khoẻ
- Nghỉ ngơi và ăn uống điều độ
- Rụng tóc: hầu hết các loại thuốc hóa trị ung thư vú giai đoạn đầu đều có tác dụng phụ này nhưng chỉ là tạm thời. Khả năng rụng tóc phụ thuộc nhiều vào loại thuốc hoá chất và hàm lượng thuốc sử dụng. Rụng tóc do hoá trị hầu như là tạm thời, tóc người bệnh hoàn toàn có thể mọc trở lại sau khi ngừng điều trị hoá trị. Một số biện pháp mà người bệnh có thể áp dụng để hạn chế tình trạng rụng tóc như:
- Gội đầu nhẹ nhàng, không gãi, chà xát mạnh
- Sử dụng dầu gội và dầu xả dịu nhẹ, thành phần tự nhiên
- Chải tóc nhẹ nhàng, không buộc tóc chặt
- Dùng mạng lưới để giữ tóc khi ngủ
- Không nhuộm tóc
- Đội tóc giả, khăn quàng cổ hoặc đội mũ
- Tăng nguy cơ nhiễm trùng;
- Giảm thấp số lượng bạch cầu;
- Vấn đề về trí nhớ và tư duy (được nhiều người gọi là não hóa trị): một số bệnh nhân ung thư vú sau hoá trị có thể gặp phải tình trạng mất trí nhớ ngắn hạn hoặc khó tập trung được;
- Triệu chứng mãn kinh, bao gồm cả bốc hỏa: rối loạn kinh nguyệt có thể xảy ra sau khi hoá trị, một số phụ nữ còn bắt đầu mãn kinh sau khi hoàn thành hoá trị. Một số trường hợp kinh nguyệt có thể trở lại sau khi điều trị xong nhưng còn phụ thuộc vào độ tuổi và loại thuốc hoá trị được sử dụng.
- Loét miệng và họng: hoá trị có thể ảnh hưởng đến miệng gây đau miệng, khô miệng, loét, chảy máu chân răng, tăng nguy cơ sâu răng… Đây là tác dụng phụ không thường gặp, người bệnh có thể yêu cầu bác sĩ kê các đơn thuốc súc miệng để cải thiện tình trạng này. Nên đến gặp nha sĩ để kiểm tra sức khoẻ răng miệng và tránh điều trị nha khoa trong thời gian hoá trị. Để giảm đau miệng, người bệnh cần lưu ý:
- Đánh răng và lưỡi theo những chuyển động nhẹ nhàng sau mỗi bữa ăn. Sử dụng bàn chải đánh răng có lông mềm
- Súc miệng bằng nước súc miệng không cồn hoặc pha muối. Pha 1 thìa cà phê muối với nửa lít nước ấm
- Tránh ăn thức ăn cứng khó nhai hoặc có thể gây kích ứng miệng
- Không hút thuốc hoặc uống rượu
- Các phản ứng ở da: Một số loại thuốc hoá trị như cyclophosphamide, doxorubicin, paclitaxel…có thể gây các phản ứng ở da làm cho da khô, nhạy cảm hơn, phát ban, xuất hiện phản ứng da gọi là hội chứng bàn tay – bàn chân (hội chứng Palmar-Plantar). Các phản ứng này khiến cho các công việc hàng ngày trở nên khó khăn hơn và có thể giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh. Thông báo cho bác sĩ nếu gặp tình trạng phát ban, phản ứng da để được hướng dẫn sử dụng loại kem bôi da phù hợp.

Nếu có phương pháp kiểm soát phù hợp, bệnh nhân có thể vượt qua và duy trì chất lượng cuộc sống tốt hơn
- Ảnh hưởng đến móng: hoá trị có thể làm thay đổi màu sắc, kết cấu của móng như: Hình thành các đường gờ ở móng tay, móng chân; móng tay trở nên giòn, nứt nẻ hơn; móng tay có thể bong ra khỏi nền móng… Tác dụng phụ của điều trị ung thư vú bằng hoá chất làm ảnh hưởng đến móng thường không nghiêm trọng. Nhưng nếu bệnh nhân thấy các dấu hiệu nhiễm trùng như sưng, nóng đỏ, đau ở dưới móng tay, móng chân thì cần báo ngay với bác sĩ. Để giảm tình trạng này, người bệnh có thể:
- Dùng kèm dưỡng ẩm cho bàn tay, bàn chân và móng tay
- Sử dụng găng tay khi làm việc nhà
- Tránh đi giày chật, sơn móng tay, móng chân…
- Buồn nôn và nôn: là tác dụng phụ cực kì phổ biến trước đây nhưng đang được cải thiện đáng kể nhờ các phương pháp điều trị tiến bộ. Người bệnh cũng có thể được kê các đơn thuốc steroids và chống nôn để cải thiện triệu chứng này. Buồn nôn và nôn có thể xuất hiện ngay sau khi hoá trị, vài giờ hoặc vài ngày sau đó phụ thuộc vào loại thuốc đang sử dụng. Khi gặp tình trạng này, người bệnh nên:
- Uống nhiều chất lỏng, uống từng ngụm nhỏ
- Chia nhỏ bữa ăn, ăn ít một, chế biến dạng mềm, lỏng
- Sử dụng trà thảo mộc như trà gừng, bạc hà
- Hạn chế ăn thực phẩm nặng mùi như tỏi, hành tây, cà ri…
- Ăn ít đồ nhiều dầu mỡ, chiên rán, mặn hoặc cay
- Bệnh thần kinh, như tổn thương dây thần kinh ở bàn tay và bàn chân;
- Thay đổi vị giác và khứu giác: Một số người bệnh thấy khẩu vị của họ bị thay đổi trong khi hoá trị, tuy nhiên tình trạng này sẽ trở lại bình thường sau khi điều trị xong. Một số thực phẩm có thể có vị khác như mặn hơn, đắng hơn. Hoặc bệnh nhân có thể không còn thấy thích các món ăn đã từng thích. Nếu tình huống này xảy ra, hãy nói chuyện với bác sĩ và có thể thử các loại thực phẩm khác nhau để tìm ra loại mình thích;
- Khô âm đạo;
- Nôn ói;
- Thay đổi cân nặng: Một số loại thuốc hoá trị có thể kích thích sự thèm ăn, giữ nước làm người bệnh tăng cân. Do đó, người bệnh cần duy trì chế độ dinh dưỡng hợp lý.
- Rối loạn về thần kinh cảm giác: sau hoá trị người bệnh cũng có thể gặp các tổn thương thần kinh gây ra triệu chứng ngứa ran, cảm giác râm ran và tê ở bàn tay và chân.
- Loãng xương: là tác dụng phụ tiềm ẩn lâu dài do đó người bệnh sau hoá trị cần thường xuyên kiểm tra mật độ xương.
- Tê và ngứa ở bàn tay, bàn chân: Những người đang hoá trị có thể đau, tê, ngứa ở bàn tay, bàn chân do tác động của một số loại thuốc hoá trị (paclitaxel, cisplatin, docetaxel…) lên thần kinh ngoại biên. Nếu cảm thấy ngứa ran hoặc khó cảm nhận sự khác biệt giữa nóng và lạnh, hãy đề cập với bác sĩ để theo dõi triệu chứng và có biện pháp xử trí. Người bệnh nên tránh các chấn thương, giữ ấm bàn tay, bàn chân… để hạn chế tác dụng phụ này
- Đau chỗ tiêm: Sưng, nóng, đỏ, đau có thể xảy ra ở vị trí kim được tiêm vào hoặc bất kỳ nơi nào dọc theo tĩnh mạch đưa thuốc vào cơ thể. Báo cho bác sĩ nếu cảm thấy đau, châm chích, nóng bỏng xung quanh vị trí đặt đường truyền khi truyền thuốc.
- Táo bón hoặc tiêu chảy: Hoá trị có thể ảnh hưởng đến hệ tiêu hoá theo những cách khác nhau, một số bệnh nhân sẽ bị táo bón, một số thì gặp tình trạng tiêu chảy.