Những loại ung thư vú có thể bạn chưa biết tới
Ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến ở nữ giới. Có nhiều loại ung thư vú, có loại thường gặp, có loại rất hiếm gặp. Mỗi loại đều có phương pháp điều trị khác nhau.
1. Ung thư vú dương tính với thụ thể hormone
Khoảng 80% tất cả các bệnh ung thư vú là “ER dương tính”. Điều đó có nghĩa là các tế bào ung thư phát triển để đáp ứng với hormone estrogen. Khoảng 65% các trường hợp bệnh ung thư vú là “PR-dương tính”. Tế bào ung thư phát triển để đáp ứng với một loại hormone khác, progesterone.
Nếu bệnh ung thư vú của bạn có số lượng lớn các thụ thể đối với estrogen hoặc progesterone, thì ung thư vú được coi là dương tính với thụ thể hormone.
Các khối u có ER/PR dương tính có nhiều khả năng đáp ứng với liệu pháp hormone hơn các khối u có ER/PR âm tính.

Ung thư vú dương tính với thụ thể hormone là loại ung thư vú có các tế bào ung thư biểu hiện thụ thể hormone estrogen (ER) và/hoặc progesterone (PR)
Bạn có thể được điều trị bằng liệu pháp hormone sau khi phẫu thuật, hóa trị và xạ trị kết thúc. Những phương pháp điều trị này có thể giúp ngăn ngừa sự quay trở lại của bệnh bằng cách ngăn chặn tác dụng của estrogen. Bác sĩ thực hiện điều này theo một trong nhiều cách.
- Thuốc tamoxifen (Nolvadex) và toremifene (Fareston) là một nhóm thuốc được gọi là bộ điều biến ER chọn lọc (SERMs). Thuốc giúp ngăn chặn ung thư quay trở lại bằng cách ngăn chặn các thụ thể hormone, ngăn không cho hormone liên kết với các thụ thể hormone này. Lộ trình điều trị thường được thực hiện trong tối đa 5 năm sau khi điều trị ung thư vú ban đầu.
- Elacestrant (Orserdu) và fulvestrant (Faslodex) là những chất làm giảm thụ thể estrogen chọn lọc (SERDs). Những loại thuốc này hoạt động bằng cách ngăn chặn và làm hỏng các thụ thể estrogen và đôi khi được sử dụng trong điều trị ung thư vú di căn.
- Một loại thuốc được gọi là chất ức chế aromatase thực sự làm ngừng sản xuất estrogen. Thuốc bao gồm anastrozole (Arimidex), exemestane (Aromasin) và letrozole (Femara).
- Các chất chủ vận giải phóng hormone luteinizing (LHRH) ngừng sản xuất estrogen của buồng trứng dẫn đến mãn kinh tạm thời. Những loại thuốc này bao gồm goserelin (Zoladex) và leuprolide (Lupron).
- Thuốc ức chế CDK 4/6 abemaciclib (Verzenio), palbociclib (Ibrance) và ribociclib (Kisqali) đôi khi được sử dụng cùng với thuốc ức chế aromatase hoặc thuốc điều trị bằng liệu pháp hormone fulvestrant (Faslodex).
- Everolimus (Afinitor) là một chất ức chế mTOR giúp cải thiện hiệu quả của các loại thuốc điều trị nội tiết tố. Thuốc được sử dụng cho những phụ nữ đã trải qua thời kỳ mãn kinh.
- Alpelisib (Piqray) là một chất ức chế P13K ở dạng thuốc viên có thể được sử dụng với fulvestrant ở phụ nữ mắc ung thư vú HR+, HER2 âm tính tiến triển với đột biến gen PIK3CA.
- Sacituzumab govitecan (Trodelvy) là một kháng thể đơn dòng với một loại thuốc hóa trị kèm theo. Thuốc được sử dụng để điều trị một số bệnh ung thư vú HR+, HER2 âm tính tiến triển.
>>> Xem thêm: Thuốc Tamoxifen điều trị, phòng ngừa ung thư vú như thế nào?
2. Ung thư vú dương tính với HER2
Trong khoảng 20% trường hợp ung thư vú, các tế bào tạo ra quá nhiều protein được gọi là HER2. Những bệnh ung thư này có xu hướng biểu hiện quá mức và phát triển nhanh chóng.
Đối với những phụ nữ bị ung thư vú dương tính với HER2, thuốc nhắm đích trastuzumab (Herceptin) đã được chứng minh là làm giảm đáng kể nguy cơ ung thư tái phát. Phương pháp điều trị tiêu chuẩn là sử dụng thuốc này cùng với hóa trị sau phẫu thuật cho những người bị ung thư vú di căn sang các khu vực khác. Thuốc đích cũng có thể được sử dụng cho bệnh ung thư vú giai đoạn đầu. Tuy nhiên, có một nguy cơ thực sự nhỏ về tổn thương tim và tổn thương phổi có thể xảy ra.

Khi ung thư vú có mức HER2 cao hơn bình thường, tế bào ung thư có thể phát triển nhanh hơn và nguy hiểm hơn so với các loại ung thư vú khác
Có một số liệu pháp nhắm đích khác đôi khi được sử dụng trong điều trị ung thư vú dương tính với HER2. Bao gồm:
- Abemaciclib (Verzenio)
- Ado-trastuzumab emtansine (Kadcyla)
- Fam-trastuzumab deruxtecan-nxki (Enhertu)
- Lapatinib (Tykerb)
- Margetuximab (Margenza)
- Neratinib (Nerlynx)
- Pertuzumab (Perjeta)
- Tucatinib (Tukysa)
- Thuốc tiêm trastuzumab, pertuzumab và hyaluronidase (Phesgo)
3. Ung thư vú bộ ba âm tính
Một số bệnh ung thư vú – chiếm khoảng 10% đến 20% - được gọi là "bộ ba âm tính" vì chúng không có thụ thể estrogen và progesterone và không biểu hiện quá mức protein HER2. Nhiều bệnh ung thư vú liên quan đến gen BRCA1 là bộ ba âm tính. Chúng thường được điều trị bằng phẫu thuật, hóa trị và xạ trị.
- Olaparib (Lynparza) và talazoparib (Talzenna) là những loại thuốc trị liệu nhắm đích có thể được sử dụng để điều trị cho những phụ nữ bị đột biến BRCA được chẩn đoán ung thư vú di căn có HER2 âm tính. Những loại thuốc này chặn một loại protein gọi là PARP.
- Atezolizumab (Tecentriq) là một loại thuốc trị liệu miễn dịch được sử dụng kết hợp với hóa trị liệu nab-paclitaxel (Abraxane) để ngăn chặn một loại protein gọi là PD-L1 trong một số bệnh ung thư vú có bộ ba âm tính.
- Trong trường hợp bệnh tiến triển mà hai loại thuốc khác đã được sử dụng, có thể thử dùng thuốc-kháng thể liên hợp sacituzumab govitecan (Trodelvy).
Nhận thông tin tổng quan về các triệu chứng và điều trị ung thư vú bộ ba âm tính.
Bài viết được tham khảo từ nguồn: https://www.webmd.com/breast-cancer/breast-cancer-types-er-positive-her2-positive